Hoạt Động Của Nguyễn Ái Quốc Và Sự Thành Lập Đảng Cộng Sản Việt Nam Sử 9

Hoạt Động Của Nguyễn Ái Quốc Và Sự Thành Lập Đảng Cộng Sản Việt Nam Sử 9

Trong môn học này, học viên sẽ tìm hiểu 7 chương, tương ứng với 7 bài học:

Trong môn học này, học viên sẽ tìm hiểu 7 chương, tương ứng với 7 bài học:

Sự kiện 6/1924 gắn với hoạt động nào của Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô?

Sự kiện 6/1924 gắn với hoạt động nào của Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô?

Người dự đại hội quốc tế VII của quốc tế cộng sản

Người dự đại hội lần thứ V của quốc tế cộng sản

Người dự đại hội quốc tế phụ nữ

Người dự đại hội Nông dân quốc tế

Tháng 6/1924, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội V của Quốc tế cộng sản tại Liên Xô.

Tổng thống Putin khẳng định Đảng Cộng sản Liên bang Nga đã có những đóng góp lớn vào các quyết định cũng như sự phát triển của đất nước, trong lĩnh vực kinh tế-xã hội, và an ninh.

Trong các ngày từ 14-15/2 tại Liên bang Nga đã diễn ra nhiều hoạt động để kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng Cộng sản Liên bang Nga.

Trong ngày chính thức, ngày 14/2, lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng đã được long trọng tổ chức trực tuyến.

Tại sự kiện này, Chủ tịch Đảng Cộng sản Liên bang Nga, ông Gennady Zyuganov đã chúc mừng khoảng 10.000 đảng viên tham gia sự kiện trên toàn Liên bang Nga.

Mở đầu buổi lễ, ông Zyuganov cho biết ngày 13/2 ông đã có cuộc gặp kéo dài 1,5 giờ với Tổng thống Nga Vladimir Putin. Trong cuộc gặp, Tổng thống Putin đã chính thức cảm ơn và chúc mừng Đảng Cộng sản Liên bang Nga nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập.

Tổng thống Putin khẳng định Đảng Cộng sản Liên bang Nga đã có những đóng góp lớn vào các quyết định cũng như sự phát triển của đất nước, trong lĩnh vực kinh tế-xã hội, và an ninh.

Ông Zyuganov nhắc lại những thành quả lớn lao mà Liên Xô trước đây đã đạt được, đồng thời nêu 7 yếu tố giúp đem lại những thành tích to lớn này, trong đó trước hết là niềm tin vào Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, lý tưởng Marx-Lenin.

[Tổng Bí thư gửi Thư chúc mừng 30 năm thành lập Đảng Cộng sản LB Nga]

Ông Zyuganov khẳng định Đảng Cộng sản Liên bang Nga là đảng vì nhân dân, đảng yêu nước, một đảng quốc tế. Phát biểu của đại biểu các đầu cầu sau đó đều nêu bật lý tưởng Cộng sản, chúc mừng ngày trọng đại này của Đảng Cộng sản Liên bang Nga.

Ngày 15/2, tại trụ sở hãng thông tấn TASS đã diễn ra buổi họp báo kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng Cộng sản Liên bang Nga, tổng kết những kết quả đạt được trong giai đoạn này cũng như kế hoạch của đảng này và phái của Đảng Cộng sản Liên bang Nga tại Duma Quốc gia (Hạ viện) trong mùa chính trị mới.

Tham dự sự kiện có đầy đủ đội ngũ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên bang Nga như Chủ tịch Gennady Zyuganov; Phó Chủ tịch thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Yury Afonin; Phó Chủ tịch Ban Chấp hành trung ương Dmitry Novikov; Ủy viên Đoàn Chủ tịch, Bí thư Ban Chấp hành trung ương Mariya Drobot,...

Theo kế hoạch, trong ngày 17/2, tại Nhà Công đoàn ở Moskva sẽ diễn ra buổi hòa nhạc kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng Cộng sản Liên bang Nga với sự tham dự của Chủ tịch  Đảng Cộng sản Liên bang Nga Zyuganov, đại diện Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang Nga, lực lượng Đảng Cộng sản Liên bang Nga trong Duma Quốc gia, Ủy ban Thành phố Moskva và Ủy ban Moskva của Đảng Cộng sản Liên bang Nga, Đoàn Thanh niên Cộng sản Lenin cùng đại diện phong trào yêu nước nhân dân cánh tả./.

Từ năm 1920, khi bắt đầu được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I Lênin đến năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là một quá trình chuẩn bị lâu dài những tiền đề chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc, từ những tổ chức tiền thân sơ khai đến những tổ chức có hệ thống bí mật, hoạt động chặt chẽ mà đỉnh cao chính là Đảng Cộng sản Việt Nam là cả một bước chuyển mình to lớn của cách mạng.

Ngay từ khi còn hoạt động trên nước Pháp, quê hương của kẻ thù áp bức dân tộc mình, Nguyễn Ái Quốc đã nhiều lần xây dựng và phát triển các tổ chức cách mạng, từ cải tổ vai trò, cách thức hoạt động của tổ chức Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, tham gia sáng lập và là đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp cho đến thành lập và điều hành tổ chức Hội Liên hiệp thuộc địa, chính qua những tổ chức đầu tiên này, Nguyễn Ái Quốc đã học được cách tổ chức những phong trào, thấu hiểu yêu cầu và nguyện vọng của các dân tộc bị áp bức và sức mạnh to lớn khi họ được đoàn kết lại.

Thời điểm những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc chưa thể thành lập được Đảng Cộng sản ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân trong đó việc dân chúng ở Việt Nam chưa biết và chưa hiểu về chủ nghĩa cộng sản là một trong những yếu tố quyết định chỉ có thể thành lập được một đảng xã hội dân tộc mà các lãnh tụ của nó có nhiệm vụ dần dần đưa các hội viên của mình tới chủ nghĩa Mác”, để giúp quần chúng nhân dân biết, có cảm tình rồi đi theo chủ nghĩa cộng sản thì trước nhất cần thành lập một tổ chức cách mạng có khuynh hướng mácxít rồi từ đó tìm cách truyền bá những quan điểm, học thuyết Mác - Lênin vào Việt Nam, giúp quần chúng nhân dân đặc biệt là giai cấp công nhân Việt Nam hiểu được sứ mệnh và trách nhiệm lịch sử trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Với mong muốn tập hợp những thanh niên Việt Nam ưu tú, giàu lòng yêu nước, đang khát khao tìm đến con đường cứu nước đúng đắn, để xây dựng một tổ chức cách mạng, tại Quảng Châu, ngay sau khi được tiếp xúc với Phan Bội Châu và nhận được danh sách do Đồng chí thân cận của cụ chuyển cho, Nguyễn Ái Quốc quyết định lập ra một nhóm bí mật làm hạt nhân cho một số rộng lớn sau này, thông qua một lớp huấn luyện về phương pháp tổ chức trong khoảng thời gian 3 tháng. Tháng 2 năm 1925, Cộng sản Đoàn được thành lập với những cá nhân tiêu biểu như: Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu …

Tháng 6 năm 1925, trên cơ sở hạt nhân là Cộng sản Đoàn, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thông qua Chính cương, Điều lệ và Chương trình hành động của Hội, được tổ chức thành 5 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Mục đích của Hội là “Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại được độc lập cho xứ sở) rồi sau làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)”.

Để có tiếng nói rộng rãi trong quần chúng nhân dân, ngày 21 tháng 6 năm 1925, Báo Thanh niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra đời, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là cây bút chủ chốt. Những bài viết của Báo Thanh niên đều ngắn gọn, lời văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu, thường đề cập những vấn đề chính: đế quốc và thuộc địa; cách mạng và cải lương; thực tiễn của cách mạng Việt Nam; đảng cách mạng và Đảng Cộng sản; cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới; cách mạng và mặt trận dân tộc thống nhất; học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin …

Thông qua Báo Thanh niên, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thống nhất về phương hướng và nội dung tuyên truyền giáo dục ở trong và ngoài hội, góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.

Nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt thực hiện các nhiệm vụ truyền bá về chủ nghĩa cộng sản cho cách mạng Việt Nam, cuối năm 1925, lớp huấn luyện chính trị chính thức khai mạc tại Quảng Châu, Trung Quốc. Học viên được nghiên cứu về tình hình thế giới, Quốc tế Cộng sản, các hình thức tổ chức của Đảng, hình thức tuyên truyền và cổ động, công tác vận động, tổ chức quần chúng …

Giảng viên chính là Nguyễn Ái Quốc, Người vừa giảng bài vừa hướng dẫn và theo dõi nhiều hoạt động, học tập, tham quan tình hình thực tế cách mạng tại Quảng Châu. Các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn là phụ giảng. Nguyễn Ái Quốc còn mời một số nhà cách mạng Trung Quốc và cố vấn, chuyên gia Liên Xô đến giảng bài.

Tác phẩm quan trọng nhất được viết trên cơ sở những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng Châu là cuốn Đường Kách mệnh. Đây là cuốn sách giáo khoa chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu như lời chỉ dẫn của Lê nin mà Người viết trang trọng ở đầu cuốn sách “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động … Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”.

Nội dung cơ bản của cuốn sách bao hàm những vấn đề cơ bản của cách mạng: cách mạng là gì, các loại cách mạng trên thế giới và cách mạng Việt Nam, lực lượng cách mạng và nhân tố bảo đảm cho cách mạng thành công là phải có đảng cách mạng. Đường Kách mệnh chứa đựng những đường nét cơ bản của con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới, là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê nin về cách mạng giải phóng thuộc địa.  Đề cập các nhân tố thành công của cách mạng, Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân, nhưng phải biết làm cho dân giác ngộ, hiểu lý luận, phải hướng dẫn sách lược cho dân; và Người nêu bật yếu tố quan trọng nhất đưa cách mạng đến thành công là phải có đảng cách mạng.

Cùng với Đường Kách mệnh và Báo Thanh niên, các tờ báo và nguyệt san bí mật được chuyển về Việt Nam, đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng và con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.

Từ năm 1925 đến tháng 4 năm 1927, Người đã trực tiếp huấn luyện 75 học viên. Phần lớn được đưa về nước hoạt động tuyên truyền lý luận cách mạng và xây dựng tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, sự nỗ lực của các hội viên được cử về nước hoạt động, hệ thống tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên nhanh chóng bắt rễ, phát triển trên phạm vi cả nước.

Phong trào “vô sản hóa” do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên xây dựng và tổ chức đã tích cực đưa hội viên vào các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, nông thôn để rèn luyện học tập nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời truyền bá lý luận Mác - Lênin, đường lối cách mạng đúng đắn vào phong trào công nhân, giác ngộ họ, tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện cho sự ra đời của Đảng.

Đến giữa năm 1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bước vào giai đoạn hoàn thành sứ mệnh lịch sử, truyền bá một cách rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin và các luận điểm cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam, tập hợp và đào tạo được một đội ngũ cán bộ cách mạng, tạo nên bước nhảy vọt và sự chuyển hóa của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, hướng vào quỹ đạo cách mạng vô sản.

Đây là tổ chức tiền thân có tính chất quá độ, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ; giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, đồng thời thúc đẩy phong trào công nhân và yêu nước theo khuynh hướng vô sản. Sự trưởng thành của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đã chứng minh tài tổ chức nhuần nhuyễn, sâu sắc, tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức,  xây dựng lực lượng cho cách mạng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ THÀNH TỰU

I. VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư cách là một chuyên ngành của khoa học lịch sử thuộc Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường ĐHKHXHNV, ĐHQGHN) được thành lập năm 1974 theo chủ trương của Ban Khoa giáo Trung ương Đảng và Quyết định của Bộ Trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

Lúc mới thành lập, Bộ môn được giao nhiệm vụ đào tạo cử nhân Lịch sử Đảng để cung cấp giáo viên Lịch sử Đảng cho các trường đại học và cao đẳng, cán bộ nghiên cứu cho các viện, các ban nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Trung ương và địa phương trong cả nước. Từ năm 1990, Bộ môn được giao thêm nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng.

Những năm 1974-1979, môn học Lịch sử Đảng ở Khoa Lịch sử chỉ có thầy Kiều Xuân Bá, vốn là cán bộ của Khoa, chuyển công tác lên Vụ Công tác chính trị của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, thầy Lê Mậu Hãn, Chủ nhiệm khoa Lịch sử và thầy Hoàng Bá Sách, Chủ nhiệm Bộ môn đứng lớp. Trợ giảng gồm các cán bộ trẻ vốn là sinh viên của Khoa được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, như các cử nhân Trần Kim Đỉnh, Đặng Hồng Hạnh, Nguyễn Đình Lê, Ngô Đăng Tri.

Sinh viên Bộ môn Lịch sử Đảng các khóa từ 1974 đến 1979 (Khóa 18 đến Khóa 23) đều là đảng viên mà phần lớn là bộ đội chuyển ngành, được đào tạo theo chương trình riêng ngay từ năm thứ nhất. Mỗi lớp là một chi bộ, có khoảng trên dưới 25 đảng viên. Từ năm 1980 (K 24), việc đào tạo được thực hiện theo khung chương trình chung của Khoa Lịch sử trong ba năm đầu, đến năm thứ tư mới tách lớp để học các chuyên đề chuyên ngành Lịch sử Đảng. Trợ giảng được bổ sung thêm các cử nhân Vũ Quang Hiển, Đinh Trung Kiên, Vũ Hồng Phúc, Hoàng Hồng.

Từ năm 1988, theo chủ trương của Nhà trường, các giáo viên của Tổ Lịch sử Đảng thuộc Bộ môn Mác-Lênin trực thuộc Ban Giám hiệu được chuyển về Khoa Lịch sử, bổ sung vào Bộ môn Lịch sử Đảng, như các cử nhân Đinh Trần Dương, Phạm Thị Chính, Nguyễn Huy Cát, Vũ Đình Kông, Ngô Văn Hoán. Bộ môn cũng tiếp nhận mới các cử nhân Phạm Quang Minh, Nguyễn Thị Nhân Hòa. Chất lượng cán bộ được tăng cường với việc thầy Lê Mậu Hãn được phong học hàm PGS và thầy Ngô Đăng Tri được nhận học vị PTS, nhiều cán bộ khác là NCS trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên cũng có cán bộ chuyển sang đơn vị khác, như thầy Nguyễn Đình Lê, cô Đặng Hồng Hạnh chuyển sang bộ môn Lịch sử Việt Nam cận- hiện đại, thầy Trần Kim Đỉnh, thầy Hoàng Hồng sang Bộ môn Phương pháp luận sử học (nay là Lý luận sử học), thầy Đinh Trung Kiên sang bộ môn Lịch sử Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thầy Nguyễn Hồng Phúc chuyển về quê (Yên Bái). Tổng số cán bộ nhìn chung ở con số trên 10 người.

Do sự thay đổi về tổ chức và biến chế như vậy, từ năm 1988, Bộ môn đồng thời đảm nhiệm hai chức năng, hai nhiệm vụ quan trọng. Đó là chức năng bộ môn chuyên ngành Lịch sử Đảng thuộc ngành sử học, có nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo cử nhân Lịch sử Đảng theo chương trình, giáo trình của Khoa Lịch sử, và chức năng của bộ môn thuộc khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có nhiệm vụ dạy môn Lịch sử Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh theo chương trình, giáo trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho sinh viên các khoa, các ngành không chuyên sử của toàn trường.

Những năm mới thành lập, số giáo trình cơ sở, chuyên đề gần như chưa có gì. Dưới sự dìu dắt của PGS, NGƯT Chủ nhiệm khoa Lê Mậu Hãn và Chủ nhiệm Bộ môn Hoàng Bá Sách, các cán bộ trẻ đã ra sức xây dựng bài giảng Lịch sử Đảng cho sinh viên ngành Lịch sử theo phương châm mỗi cán bộ phụ trách một giai đoạn. Hệ thống các chuyên đề cho sinh viên chuyên ngành (năm thứ tư) cũng được xúc tiến do cán bộ bộ môn đảm nhiệm, như: Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin; Đường lối quân sự của Đảng; Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng; Xây dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng; Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao và vận động quốc tế trong tiến trình cách mạng Việt Nam; Phương pháp cách mạng Việt Nam ở miền Nam; Đảng lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc thời kỳ 1965-1972; Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ hậu phương chi viện tiền tuyến thời kỳ 1945-1975; Một số vấn đề về nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Phương pháp khai thác tư liệu Lịch sử Đảng,…

Sinh viên theo học chuyên ngành Lịch sử Đảng trong những năm 1974- 1989 thường xuyên chiếm từ 20% đến 40% tổng số sinh viên Khoa Lịch sử. Đó cũng là những năm thầy và trò trong Bộ môn đã kiên trì chịu đựng gian khổ, vượt qua thử thách khắc nghiệt của đời sống vật chất, nỗ lực phấn đấu giảng dạy, học tập và tham gia các phong trào lao động công ích, đi thực tập thực tế, đi coi thi tuyển sinh ở các tỉnh... Trong gian khổ khó khăn, Bộ môn đã khẳng định được vai trò của mình trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, trở thành một địa chỉ đào tạo tin cậy, được Bộ giao thêm nhiệm vụ đào tạo lớp chuyên tu, nâng cao trình độ cho cán bộ giảng dạy Lịch sử Đảng của các trường đại học, cao đẳng trong cả nước với số lượng gần 40 người.

Từ năm 1990, Bộ môn Lịch sử Đảng được giao nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng, nhưng đào tạo cử nhân Lịch sử Đảng lại gặp khó khăn lớn. Trong mấy năm đầu thập kỷ 90, mặc dù sự nhiệp đổi mới do Đảng khởi xướng đã có một số thành tựu có ý nghĩa quan trọng, song những biến động của tình hình thế giới, nhất là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, tình hình kinh tế xã hội nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng, các thế lực thù địch ra sức phản kích, nhất là trên bình diện tư tưởng... đã tác động mạnh tới tâm lý, tư tưởng của nhiều sinh viên. Biểu hiện là số lượng sinh viên chọn học chuyên ngành Lịch sử Đảng giảm sút nghiêm trọng: Khóa 35 (1990-1994) và khóa 36 (1991-1995), mỗi khóa chỉ có hai sinh viên, thậm chí khóa 37 (1992-1996) chỉ còn một sinh viên (Võ Văn Bé) theo học. Trong hoàn cảnh đó, Bộ môn vẫn kiến trì đào tạo và tạo mọi điều kiện để động viên, khích lệ sinh viên học tập. Các sinh viên theo học chuyên ngành Lịch sử Đảng giai đoạn này được bạn bè coi là “dũng cảm”, “trung kiên” cách mạng.

Như những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, thông qua nội dung các bài giảng và các bài báo khoa học, cán bộ của Bộ môn đã góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng cho sinh viên, góp phần làm sáng tỏ những quy luật tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ năm 1997 trở đi, khi đất nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Bộ môn Lịch sử Đảng ngày càng khởi sắc và có bước phát triển nhảy vọt về chất, công tác đào tạo ngày càng mở rộng.

Số sinh viên và học viên cao học, NCS theo học chuyên ngành Lịch sử Đảng tăng lên một cách nhanh chóng. Số lượng sinh viên chuyên ngàng Lịch sử Đảng thường xuyên chiếm từ 30 đến trên 50% tổng số sinh viên toàn khoa Lịch sử, nhiều năm lên tới trên 50 sinh viên. Số lượng học viên cao học, NCS bình quân mỗi khóa có trên 20 người, cá biệt như năm 2009, có tới 43 học viên cao học, 6 NCS. Bên cạnh đó, nhiều giáo viên còn phải đảm nhiệm công tác đào tạo sau đại học cho nhiều cơ sở khác trong và ngoài ĐHQGHN và dạy thêm môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho nhiều lớp trong ĐHQGHN. Bình quân mối năm, một cán bộ trong bộ môn phải đứng lớp trên 600 giờ (chưa tính giờ quy đổi, giờ sau đại học), gấp đôi giờ chuẩn.

Nhìn chung, trải qua hơn 35 năm kể từ ngày thành lập (1974-2010), trong đội hình của Khoa lịch sử, Đơn vị Anh hùng Lao động, Bộ môn Lịch sử Đảng đã đào tạo được hơn 700 cử nhân, trên 10 tiến sĩ và hơn 100 thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng. Nhiều sinh viên của Bộ môn đã trưởng thành sau khi ra trường, như Phan Việt Dũng (TS, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình), Nông Hải Pín (Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo tỉnh Cao Bằng), Ngô Ngọc Thắng (PGS.TS, Phó Giám đốc Phân viện Hồ Chí Minh Hà Nội),...  Hiện tại (năm 2010), Bộ môn có trên 15 NCS, gần 100 học viên cao học và hơn 50 sinh viên (năm thứ tư) theo học chuyên ngành Lịch sử Đảng. Số lượng đó đều giữ tỷ lệ trên dưới 50% số NCS, học viên cao học và sinh viên của Khoa Lịch sử.

Cùng với quá trình đạo tạo, Bộ môn cũng tăng cường công tác bồi dưỡng cán bộ. Bộ môn lần lượt có thêm những cán bộ có học hàm, học vị và danh hiệu mới. Đó là thầy Nguyễn Huy Cát, thầy Ngô Văn Hoán, thầy Vũ Đình Kông được công nhận học vị ThS; thầy Đinh Trần Dương, thầy Vũ Quang Hiển được công nhận học vị TS; thầy Ngô Đăng Tri được nhận học hàm PGS. Tiếp đó, TS Đinh Trần Dương, TS Vũ Quang Hiền được nhận học hàm PGS, PGS.NGƯT Lê Mậu Hãn được nhận danh hiệu NGND, PGS.TS Ngô Đăng Tri được nhận danh hiệu NGƯT. Số cán bộ được bổ sung, được bộ môn đào tạo thành ThS có thày Nguyễn Quang Liệu, cô Lê Quỳnh Nga, cô Đỗ Thanh Loan và TS Lê Văn Thịnh.

Tuy nhiên, về số lượng, cán bộ của Bộ môn thời kỳ này lại có sự giảm sút. Đó là thầy Hoàng Bá Sách, cô Phạm Thị Chính nghỉ hưu, thầy Phạm Quang Minh chuyến sang Khoa Quốc tế học, cô Nguyễn Thị Nhân Hòa chuyển sang Bộ môn Ngoại ngữ, ThS Ngô Văn Hoán lên làm Trưởng Ban Thanh tra đào tạo của trường. Tiếp đó PGS.NGND Lê Mậu Hãn, PGS.TS Đinh Trần Dương, ThS Vũ Đình Kông nghỉ hưu, ThS Nguyễn Quang Liệu lên làm Trưởng phòng Chính trị và công tác sinh viên của trường.

Sau những biến động đó, hiện tại (2010), Bộ môn còn lại 6 giáo viên cơ hữu: PGS.TS.NGƯT Ngô Đăng Tri, PGS.TS Vũ Quang Hiển, TS Lê Văn Thịnh, ThS Nguyễn Huy Cát, ThS Lê Quỳnh Nga, ThS Đỗ Thanh Loan.

II. Về nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác

Nếu như những năm đầu sau ngày thành lập, công tác nghiên cứu khoa học còn rất “khiêm tốn” (chỉ có hơn 10 công trình trong những năm 1974-1989), thì từ năm 1990, số lượng các công trình được công bố ngày càng nhiều và sự chú trọng về học thuật ngày càng nâng cao. Mở đầu là bài viết của PGS.NGƯT Lê Mậu Hãn: Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập dân tộc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đăng trên Tạp chí lịch sử Đảng, số 5-1990. Lần đầu tiên, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Hội nghị thành lập Đảng do Hồ Chí Minh chủ trì được khẳng định là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh.

Theo tinh thần học thuật đó, các cán bộ trong Bộ môn đã có nhiều thành tựu mới trong nghiên cứu khoa học. Các PGS.TS Ngô Đăng Tri, PGS.TS Vũ Quang Hiển đều là thành viên của “Câu lạc bộ 100” của Khoa lịch sử (có trên 100 cuốn sách và bài nghiên cứu được công bố).

Đến năm 2010, cán bộ trong Bộ môn đã chủ trì và tham gia gần 10 đề tài cấp Nhà nước: Lịch sử Quốc hội Việt Nam; Lịch sử Chính phủ Việt Nam; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Lịch sử Việt Nam; Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh; Lịch sử kháng chiến chống Pháp của quân và dân Liên khu IV; Bài học kinh nghiệm hoạt động đối ngoại của Thăng Long-Hà Nội; Từ điển Bách khoa Việt Nam; Lịch sử Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam;...

Đã chủ trì trên 10 đề tài cấp bộ, tỉnh, thành phố và Đại học Quốc gia Hà Nội: Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo sản xuất tiểu thủ công nghiệp thời kỳ 1954-1991; Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo xây dựng hệ thống chính quyền thời kỳ 1954- 1991;  Chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ 1945-1954; Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ 1975-2000; Đảng lãnh đạo xây dựng chính quyền cách mạng 1945-1954; 1000 câu hỏi, đáp về Thăng Long-Hà Nội; Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh; Lịch sử Hà Tĩnh; Nghệ Tĩnh với phong trào xuất dương cứu nước đầu thế kỷ XX; Tân Việt cách mạng Đảng; Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu Lịch sử Đảng; Một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng thời kỳ 1986-2000; Cải cách giáo dục trong kháng chiến chống Pháp, thành tựu và kinh nghiệm; Vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong văn kiện Đảng thời kỳ 1930-1975...

Đã chủ trì và tham gia biên soạn 4 bộ giáo trình và nhiều sách chuyên đề cho Bộ giáo dục đào tạo: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh; Đại cương lịch sử Việt Nam; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam- Tập bài giảng; Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh; Một số chuyên đề về Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (3 tập), Một số chuyên đề về Đường lối cách mạng Việt Nam;... PGS Lê Mậu Hãn, PGS.TS Vũ Quang Hiển, PGS.TS Ngô Đăng Tri là thành viên ra đề thi tuyển sinh, thi học sinh giỏi môn lịch sử cho Bộ, cho ĐHQG nhiều năm.

Đã chủ biên hoặc tham gia biên soạn hàng trăm cuốn sách liên quan đến lịch sử Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam- các đại hội và hội nghị trung ương; Các Cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; Lịch sử Quốc hội Việt Nam; Lịch sử Chính phủ Việt Nam; Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh; Nghệ Tĩnh với phong trào cách mạng giải pháp dân tộc trong 30 năm đầu thế kỷ XX; Lịch sử kháng chiến chống Pháp của quân dân Liên khu IV; Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh; Lịch sr Hà Tĩnh; Lịch sử Đường sắt Việt Nam; 1000 câu hỏi đáp về Thăng Long-Hà Nội; Căn cứ du kích ở Đồng bằng Bắc Bộ 1945-1954; Đạo đức phong cách lề lối làm việc của cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh; Vùng tự do Thanh-Nghệ-Tĩnh trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954); Điện Biên Phủ, các văn kiện của Đảng, Nhà nước; Điện Biên Phủ: hợp tuyển các công trình khoa học; Điện Biên Phủ dưới góc nhìn của các nhà khoa học Việt-Pháp; Việt Nam trong tiến trình thống nhất đất nước và hội nhập; Cách mạng Tháng Tám, một sự kiện lịch sử vĩ đại; Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời kỳ 1945-1954; Lịch sử phong trào công nhân Đồng Tháp; Lịch sử phong trào công nhân Ninh Bình; Lịch sử phong trào công nhân Đắc Lắc; Lịch sử Đảng bộ Hương Khê (1930-2000); Lịch sử trường Chính trị Hà Tĩnh (1945-2002); 80 năm Đảng Cộng sản Việt Nam, những chặng đường lịch sử (1930-2010);...

Đã có trên 300 bài nghiên cứu khoa học được đăng trên các tạp chí khoa học ở Trung ương, như: Lịch sử Đảng; Nghiên cứu lịch sử; Cộng sản; Lịch sử Quân sự; Khoa học; Nghiên cứu Châu Âu; Nghiên cứu Đông Nam Á;  Giáo dục lý luận;... và các kỷ yếu hội thảo khoa học trong và ngoài nước.

Đã tham quan, nghiên cứu thực tế nhiều nơi trong nước như Điện Biên Phủ, Pắc Bó, Sa Pa, Lũng Cú, Lạng Sơn, Móng Cái, Tây Nguyên, Tây Ninh, An Giang, Cà Mau, Phú Quốc, Côn Đảo,...

Đã tham dự nhiều cuộc hội thảo khoa học quốc tế ở CHLB Đức, LB Nga; CH Pháp, Austraylia; Trung Quốc, Lào; Hàn Quốc;...

Cán bộ của Bộ môn đều là những cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức, tư cách tốt, tham gia tích cực các công tác Đảng, chính quyền, công đoàn, đoàn thanh niên, hội Cựu chiến binh, trợ lý sau đại học, trợ lý chính trị và công tác sinh viên, cố vấn học tập. Như thành viên Hội đồng khoa học trường, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử (PGS.NGND Lê Mậu Hãn), Phó Chủ tịch Công đoàn ĐHQGHN, Thường vụ Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn trường, Phó Chủ nhiệm Khoa Lịch sử (PGS.TS Ngô Đăng Tri), ủy viên BCH Hội Cựu chiến binh Trường (PGS.TS Vũ Quang Hiển, ThS Vũ Đình Kông),...

Nhìn lại hơn một phần ba thế kỷ xây dựng, trưởng thành, Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua một quá trình phấn đấu kiên trì bền bỉ, góp phần đào tạo được một đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng có số lượng đông, chất lượng tốt; đồng thời từng bước đẩy mạnh hoạt động khoa học, góp phần làm cho Lịch sử Đảng thực sự trở thành một khoa học, phục vụ đắc lực sự nghiệp giáo dục, đào tạo của đất nước. Cùng với các bộ môn anh em trong khoa Lịch sử, Bộ môn Lịch sử Đảng đã tạo nên nét đặc trưng của ngành lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây, của Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội hiện nay.

Các thế hệ giáo viên, học viên cao học, NCS, sinh viên của Bộ môn luôn luôn trân trọng, ghi nhớ những nỗ lực phấn đầu, rèn luyện, giảng dạy, học tập, nghiên cứu của các thành viên đã và đang học tập, công tác tại Bộ môn, trong đó có các chủ nhiệm bộ môn như: Thầy Hoàng Bá Sách (1974- 1988), PGS.NGND Lê Mậu Hãn (1989-1996), PGS.TS.NGƯT Ngô Đăng Tri (1997-2004 và 2009- nay), PGS.TS Vũ Quang Hiển (2005-2009) và các Phó Chủ nhiệm Bộ môn như: ThS Ngô Văn Hoán (1989-1996), ThS Nguyễn Huy Cát (1997-nay).

Bộ môn Lịch sử Đảng là một địa chỉ đạo tạo đại học và sau đại học chất lượng cao. Nhiều cơ quan, cá nhân khi có nhu cầu tuyển dung cán bộ giảng dạy và nghiên cứu Lịch sử Đảng đã tìm đến với Bộ môn. Trên con đường đi tới, Bộ môn luôn mở rộng cánh cửa tiếp đón các lớp sinh viên, học viên cao học, NCS đến học tập, nghiên cứu tại Bộ môn.

Tự hào với truyền thống tốt đẹp của mình, của Khoa, của Nhà trường, Bộ môn Lịch sử Đảng đã, đang và sẽ không ngừng phấn đấu, giữ vững và phát huy thành quả đã đạt được, xứng đáng với các phần thưởng cao quý mà Đảng và Nhà nước đã trao tặng: Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (năm 2001), Huân chương Lao động hạng Ba (năm 2004).

Tính năng này Bảo tàng đang triển khai và hoàn thiện trong thời gian sắp tới. Để mua vé tham quan Bảo tàng, Quý khách vui lòng liên hệ đến số điện thoại: 024.38463757/