Mảnh đất Hà Nội nghìn năm văn hiến với biết bao vẻ đẹp làm xao động lòng người, từ những vẻ đẹp hết sức bình dị, cổ kính của những ngôi chùa đến những công trình kiến trúc đồ sộ từ lịch sử xa xưa đến nay vẫn còn vẹn nguyên bao giá trị đẹp đẽ của nó. Hà Nội không chỉ là Thủ đô của Việt Nam mà còn là nơi giao thoa, hội nhập của biết bao nền văn hóa khác, nơi in dấu biết bao công trình văn hóa lịch sử mang đậm nét Việt thời xa xưa.
Mảnh đất Hà Nội nghìn năm văn hiến với biết bao vẻ đẹp làm xao động lòng người, từ những vẻ đẹp hết sức bình dị, cổ kính của những ngôi chùa đến những công trình kiến trúc đồ sộ từ lịch sử xa xưa đến nay vẫn còn vẹn nguyên bao giá trị đẹp đẽ của nó. Hà Nội không chỉ là Thủ đô của Việt Nam mà còn là nơi giao thoa, hội nhập của biết bao nền văn hóa khác, nơi in dấu biết bao công trình văn hóa lịch sử mang đậm nét Việt thời xa xưa.
Rất đông du khách và người dân địa phương đến ngôi đền nằm trong Thăng Long tứ trấn này để chiêm bái, cầu may mắn và bình an cho cả năm.
2. Đền Kim Liên trấn giữ phía Nam, thờ thần Cao Sơn Đại Vương
Đền Kim Liên là ngôi đền linh thiêng trấn giữ phía Nam, nơi thờ phượng thần Cao Sơn, một trong 100 người con của thủy tổ Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo chân mẹ lên núi, ông đã giúp Sơn Tinh đánh bại Thủy Tinh để mang lại giang sơn ấm no và thái bình cho người dân.
Cao Sơn Đại vương cũng là vị thần bảo hộ, phụ trợ nhân dân chống lại thiên tai, cường địch, giữ gìn sự bình yên của cuộc sống. Du khách đến trấn phía Nam trong Thăng Long tứ trấn để cầu mọi việc xuôi chèo mát mái.
Theo tín ngưỡng dân gian, thần Cao Sơn là một người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Sau khi theo mẹ lên núi đã có công trong việc bảo vệ, trấn giữ xua đuổi tà ma cho dân chúng phía Nam thành Thăng Long.
Sau đó, ngài xin vua cha về vùng đất hoang vu lập nghiệp (nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội). Với mong muốn ghi nhớ công ơn, sau khi ngài mất, nhân dân đã lập đền để thờ thần Cao Sơn. Theo văn bản cổ nhất có niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1510) có ghi tên di tích “Cao Sơn Đại Vương Thần Từ”.
So với ba ngôi đền còn lại, đền Kim Liên được cho là hoàn thiện muộn nhất, vào thế kỷ 16-17 từ khi được khởi công sau sự kiện dời đô. Qua thời gian, dân làng Kim Liên xây thêm cổng tam quan cạnh hồ Kim Liên. Nhiều công trình bổ trợ cũng đã được xây dựng và ngôi đền dần kiêm luôn chức năng của một ngôi đình làng.
Cổng đình và cửa chính của chính điện đều quay mặt về hướng Tây. Kiến trúc của đình gồm hai phần: phần trước gò có cổng cột, hai gian hai bên sân gạch rộng rãi và kiến trúc chính của di tích nằm ở khuôn viên.
Đình chính gồm: Nghi môn, Đại bái, Hậu cung. Nghi môn là ngôi nhà ba gian. Từ ngoài vào trong có cột cổng, đỉnh cột đặt gạch gốm úp vào nhau, bên dưới treo đèn lồng, trong có tứ linh được chạm khắc khéo léo, tinh xảo.
Kiến trúc chính của khu di tích gồm ba cổng, một ngôi đền thờ thần. Đi hết thềm, bạn sẽ qua chín bậc gạch cao xây bằng gạch lớn thời Lê Trung Hưng, nối kiến trúc ngoài trời với kiến trúc chính. Hai bên bậc tam cấp, sát sân gạch có hai con cá sấu đá có từ thời Lê. Hết bậc tam cấp là ba lối vào đền Cao Sơn.
Đền bao gồm các công trình: tam quan, đại bái, phương đình, thiêu hương, cung cấm và nhà hội đồng. Tam quan được chia thành 5 gian. Phương đình xây dựng theo kiến trúc lối hai tầng 8 mái đao cong.
Nối giữa phương đình và đại bái là mái vòm hình mai cua. Trên các cột gỗ đều được trang trí phong phú bởi sự khéo léo, tinh xảo của các nghệ nhân.
Thiên hương và cung cấm ở đền có kiến trúc khá giống nhau, mái vuốt góc đao cong hai tầng. Tượng thần Bạch Mã được đặt trong cung cấm.
Hiện nay, đền còn lưu giữ 15 văn bia cổ và nhiều dị vật cổ có giá trị như bức hoành phi "Đông trấn linh từ", "Cỗ Long ngai", đồ thờ gồm các vũ khí thời xưa như: đao, câu liêm, xích,... được chạm khắc tinh xảo.
Đặc biệt, ngôi đền thiêng trong Thăng Long tứ trấn này còn giữ được huyệt thông âm. Đó là một cái giếng nằm ở phía bên phải đền, một thứ quan trọng theo quan điểm tả dương hữu âm và giếng huyệt chính là âm.
Với bề dày lịch sử và kiến trúc độc đáo, đền Bạch Mã được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa từ năm 1986.
Hằng năm, cứ vào ngày 13/2 âm lịch, lễ hội chính của đền Bạch Mã được tổ chức. Đây là lễ hội mang nghi thức cung đình, vừa là tập tục dân gian quan trọng được duy trì từ ngàn đời mang đến không khí vui tươi, phấn khởi của ngày xuân.
Nằm trong Thăng Long tứ trấn, cùng kiến trúc độc đáo cũng như sở hữu nhiều di vật quý hiếm, đền Kim Liên được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 9/1/1990.
Lễ hội đền Kim Liên được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hằng năm. Vào ngày này, dân làng lại mở hội truyền thống, nghe tế lễ để báo đáp công lao của thần. Bạn có thể đến đây vào bất cứ ngày nào để tham quan.
Chính điện có hình chữ đinh rất độc đáo. Hậu cung là ngôi nhà có ba gian dọc, xây bằng gạch, lợp mái ngói. Nằm ở gian cuối cùng của Hậu cung là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai vị nữ thần giao hòa.
Ngoài kiến trúc ấn tượng, ngôi đền nằm trong Thăng Long tứ trấn này còn lưu giữ nhiều di vật: 33 bản sắc phong các thời Lê, Nguyễn, tấm bia đá "Cao Sơn Đại Vương Thần Từ Bi Minh" năm 1510... Đây đều là những bảo vật quý hiếm có giá trị lịch sử cao.
Ngự ở phía tây kinh thành là đền Voi Phục ẩn mình dưới tán lá xanh ở công viên Thủ Lệ. Đức thần được thờ là Hoàng tử Linh Lang, có nguồn gốc là con của Long Vương thác sinh vào làm con một bà phi tên là Hạo nương của vua Lý Thánh Tông. Vào thế kỷ 11, đức thần đã có công giúp vua Lý Thánh Tông đánh giặc Tống. Để tưởng nhớ công đức thần, nhà vua đã lệnh cho dân chúng dựng đền Voi Phục; tên gọi xuất phát từ hai bức tượng voi đá quỳ trước cổng đền.
Mái đền Voi Phục mang kiến trúc truyền thống như những ngôi đền cổ khác — đuôi mái đền được uốn cong, được tổ điểm bởi chạm khắc các linh vật như rồng, lân, phượng, v.v.
Nằm giữa lòng Phố Cổ, đền Bạch Mã là "tuyến phòng vệ" trấn giữ phía Đông thành cổ. Được khởi dựng vào thế kỷ thứ 9, đền Bạch Mã được xem là ngôi đền lâu đời nhất của Tứ Trấn. Vị thần được thờ phụng ở đây là thần Long Đỗ (có nghĩa là “rốn rồng”), hay còn gọi là thần Bạch Mã.
Tương truyền rằng khi dời đô về Thăng Long vào năm 1010, Hoàng đế Lý Thái Tổ mở rộng phủ thành nhiều lần nhưng đều bất thành. Đến một ngày, ông bèn cử người đến cầu khấn thần Long Đỗ, rồi đến đêm, ông nằm mộng thấy thần đến chúc mừng và mách đắp thành theo dấu chân của con ngựa trắng bước ra từ đền. Nhà vua đắp thành y lời thần, xây đến đâu chắc đến đấy. Cảm tạ ơn trên, nhà vua đã đổi tên ngôi đền thành Bạch Mã, và phong cho Long Đỗ là Thành hoàng của thành Thăng Long.
Pho tượng Bạch Mã và biểu tượng Mặt Trời trên tấm đệm yên ngựa. Tại Việt Nam và nhiều nền văn hóa khác, việc tôn thờ hướng Đông cũng chính là tôn thờ Mặt Trời.
Ngôi đền có bốn phần chính. Đầu tiên là Phương đình (sân trước) với những cột gỗ lim sơn son thếp vàng. Tiếp theo là Đại bái (đình ngoài) được dành riêng để thờ Bạch Mã, rồi Thiên hương (đình giữa). Cung cấm trong cùng là nơi thờ thần Long Đỗ.
Sân trước và những trạm trổ tinh xảo.
Đền Kim Liên là ngôi đền linh thiêng trấn giữ phía Nam, nơi thờ phượng thần Cao Sơn, một trong 100 người con của thủy tổ Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo chân mẹ lên núi, ông đã giúp Sơn Tinh đánh bại Thủy Tinh để mang lại giang sơn ấm no và thái bình cho người dân.
Lối vào đền Kim Liên với bức hoành phi khảm ba chữ Nho: “Trấn Nam Phương”
So với ba ngôi đền còn lại, đền Kim Liên được cho là hoàn thiện muộn nhất, vào thế kỷ 16-17 từ khi được khởi công sau sự kiện dời đô. Qua thời gian, dân làng Kim Liên xây thêm cổng tam quan cạnh hồ Kim Liên. Nhiều công trình bổ trợ cũng đã được xây dựng và ngôi đền dần kiêm luôn chức năng của một ngôi đình làng.
Ao Kim Liên, nơi gắn liền với câu chuyện "nghề thợ cạo".
Di vật quan trọng nhất của ngôi đền là tấm bia đá "Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh" soạn năm 1510. Bên cạnh đó là hệ thống 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương được dựng từ triều Hậu Lê đến triều Nguyễn.
Văn bia đá được chạm trổ tinh xảo.