Các Chính Sách Dân Tộc Thiểu Số

Các Chính Sách Dân Tộc Thiểu Số

Cũng như nhiều tỉnh, thành phố khác thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long là tỉnh đa dân tộc gồm người Kinh, Khmer, Hoa... trong đó đồng bào DTTS chủ yếu sinh sống tại các huyện Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Ôn và thị xã Bình Minh. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, bà con các dân tộc ở Vĩnh Long được thụ hưởng nhiều chương trình, chính sách đặc thù vùng đồng bào DTTS như Chương trình 135, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025... Nhờ vậy, đời sống bà con không ngừng được cải thiện và nâng lên. Đến nay, mạng lưới giao thông tại các địa phương vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống được đầu tư xây dựng khá hoàn chỉnh giúp cho việc đi lại, vận chuyển hàng hóa thuận tiện hơn. Những căn nhà dột nát, xiêu vẹo dần được thay thế bằng những căn nhà kiên cố, sạch đẹp. Sự đổi thay tại các phum, sóc cho thấy đời sống của bà con các DTTS, nhiều nhất là đồng bào Khmer ở Vĩnh Long ngày càng đi lên.

Cũng như nhiều tỉnh, thành phố khác thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long là tỉnh đa dân tộc gồm người Kinh, Khmer, Hoa... trong đó đồng bào DTTS chủ yếu sinh sống tại các huyện Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Ôn và thị xã Bình Minh. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, bà con các dân tộc ở Vĩnh Long được thụ hưởng nhiều chương trình, chính sách đặc thù vùng đồng bào DTTS như Chương trình 135, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025... Nhờ vậy, đời sống bà con không ngừng được cải thiện và nâng lên. Đến nay, mạng lưới giao thông tại các địa phương vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống được đầu tư xây dựng khá hoàn chỉnh giúp cho việc đi lại, vận chuyển hàng hóa thuận tiện hơn. Những căn nhà dột nát, xiêu vẹo dần được thay thế bằng những căn nhà kiên cố, sạch đẹp. Sự đổi thay tại các phum, sóc cho thấy đời sống của bà con các DTTS, nhiều nhất là đồng bào Khmer ở Vĩnh Long ngày càng đi lên.

Tìm hiểu về dân tộc Thái ở Việt Nam: Nguồn gốc

Khi tìm hiểu về dân tộc Thái, có rất nhiều nguồn tài liệu giới thiệu về dân tộc này. Lịch sử của dân tộc Thái khá phức tạp nên bài viết này chỉ tập trung giới thiệu những nét đặc sắc nhất. Ngoài ra, nếu muốn hiểu hơn về người Thái, du khách có thể về các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta để trải nghiệm cuộc sống như người bản địa.

Dân tộc Thái ở Việt Nam là một nhóm thuộc sắc tộc Thái từ miền Nam của Trung Quốc di chuyển về khu vực các quốc gia Đông Á. Người Thái được chia thành người Thái Đen, Thái Trắng và Thái Đỏ. Ngoài ra còn một số nhóm nhỏ khác, hình thành nên một dân tộc với lịch sử phát triển lâu đời.

Theo đó, dân tộc Thái ở nước ta xuất hiện khoảng 1000 năm trước, có chữ viết và ngôn ngữ riêng. Địa bàn cư trú của người Thái thường là các tỉnh miền núi bao gồm Điện Biên, Lai Châu, Hòa Bình, Sơn La, Yên Bái, Lào Cai và khu vực Thanh Hóa, Nghệ An. Theo thống kê, dân tộc Thái đứng ở vị trí thứ 3 trong về dân số các dân tộc ở Việt Nam.

Vài nét đặc sắc về văn hóa của người Thái

Khi dành thời gian tìm hiểu về dân tộc Thái, bạn sẽ thấy đây là một dân tộc làm nông nghiệp khá giỏi. Họ chủ yếu phát triển cuộc sống bằng nghề trồng lúa nước, làm nương rẫy và nuôi các loại gia súc, gia cầm. Ngoài ra, người Thái còn làm gốm, đan lát, dệt vải,… Có dịp khám phá bản Lác ở Mai Châu Hòa Bình, bạn sẽ hiểu hơn về cuộc sống của người dân nơi đây.

Đi thăm những bản làng đẹp của người Thái, bạn sẽ thấy họ sinh sống trong những ngôi nhà sàn rất đẹp. Kiến trúc nhà sản được xây dựng với nóc hình mai rùa, nhà có lan can cẩn thận, có khung cửa sổ trang trí rất độc đáo. Đặc biệt, người Thái Đen còn đặt tên riêng cho các gian nhà.

Tùy vào địa bàn cư trú mà người Thái thường xây nhà ở vị trí dưới khu vực chân núi. Xung quanh là ruộng lúa, là vườn cây xanh tươi mướt mát rất đẹp. Giữa phong cảnh hữu tình của những vùng núi cao, nếp nhà người Thái hiện lên với vẻ đẹp bình yên, mang lại cảm giác rất thư thả, thoải mái cho du khách.

Càng tìm hiểu về dân tộc Thái, du khách càng nhận ra nhiều điều hay ho và thú vị của họ. Trong các dân tộc thiểu số ở nước ta, người Thái là một dân tộc rất thích ca hát, nhảy múa, làm thơ, đệm đàn. Họ có điệu múa xòe, múa sạp rất nổi tiếng, trở thành di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam.

Đặc biệt, đây cũng là dân tộc có rất nhiều lễ hội lớn nhỏ trong năm. Tiêu biểu là lễ hội hoa ban để cầu mưa, cầu phúc cho người dân. Bên cạnh đó còn có lễ hội cơm mới, cầu mưa, cầu mùa,… với nhiều hoạt động tưng bừng, nhộn nhịp. Có dịp du lịch Lai Châu, Hòa Bình, Điện Biên,… du khách sẽ có cơ hội tham gia những lễ hội đặc biệt này.

Tham dự các lễ hội của người Thái, bạn còn được chiêm ngưỡng các thiếu nữ Thái diện trang phục truyền thống rất đẹp. Mỗi nhóm nhỏ trong cộng đồng dân tộc Thái sẽ có trang phục với dấu ấn riêng. Tuy nhiên về cơ bản, họ sẽ mặc váy đen không hoa văn, kết hợp với áo ngắn hoặc áo dài có cúc áo đẹp. Đặc biệt, người dân tộc Thái còn nổi tiếng với chiếc khăn piêu đội đầu được dệt kỳ công, tinh xảo.

Về văn hóa tâm linh, người Thái cho rằng con người sau khi chết đi sẽ tiếp tục “sống” ở một thế giới khác. Đám tang là một lễ để tiễn người chết về với “Mường Trời”. Người chết sẽ được chôn trong rừng – nơi có nhà mồ và nấm mộ rất chỉn chu. Về cơ bản, quan niệm tâm linh này cũng giống như nhiều dân tộc khác tại Việt Nam.

Khi về thăm các bản làng của người Thái ở miền núi phía Bắc nước ta, du khách còn có cơ hội trải nghiệm những món ngon truyền thống. Một số món ngon nổi tiếng mà du khách cực yêu thích chính là cơm lam, nộm hoa ban, canh bon, nậm pịa, nộm rau dớn, rêu đá nướng, pa pỉnh tộp,… Mỗi món ăn với hương vị thơm ngon đặc trưng chắc hẳn sẽ khiến du khách nhớ mãi.

Những bản làng người Thái đẹp ở nước ta

Trên bản đồ du lịch Việt Nam có nhiều bản làng đẹp của người dân tộc Thái được đầu tư phát triển du lịch. Ở Mai Châu Hòa Bình có bản Lác xinh đẹp – nơi mà người dân cư trú trong những nếp nhà sàn nằm giữa ruộng lúa mênh mông, hùng vĩ. Ở bản Lác, bạn có thể thư thả đi dạo khắp bản, ăn những món ngon và thả ga sống ảo.

Có dịp du lịch Yên Bái, du khách cũng có thể khám phá Mường Lò ở thị xã Nghĩa Lộ. Nơi đây, người Thái sống quần tụ trong những thung lũng xinh đẹp của Mường Lò, chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp. Đặc biệt, người Thái ở Mường Lò nổi tiếng với điệu múa xòe rất đẹp, được trình diễn vào những lễ hội lớn.

Ngoài ra, nếu đi về khu vực tỉnh Điện Biên, bạn cũng có thể vi vu Mường Phăng để ngắm bức tranh thiên nhiên hoang sơ và tìm hiểu về dân tộc Thái ở đây. Ở vùng này là địa bàn cư trú của người Thái Đen với nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo, hứa hẹn mang lại cho du khách nhiều trải nghiệm thực sự đáng nhớ.

Có thể nói rằng khi tìm hiểu về dân tộc Thái ở Việt Nam, du khách sẽ càng cảm nhận trọn vẹn hơn sự thú vị của dân tộc này. Từ nhà ở, trang phục, văn hóa cho đến ẩm thực của người Thái đều mang một dấu ấn riêng, hứa hẹn mang lại cho người miền xuôi nhiều ấn tượng khó phai.

Trà Văn (tổng hợp) - luhanhvietnam.com.vn

Chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực văn hóa đối với các dân tộc người thiểu số

Lúc sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: Thực chất của vấn đề dân tộc là văn hóa và cán bộ. Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta suy cho cùng là làm cho các dân tộc được sống trong hòa bình, tự do, được nâng cao đời sống vật […]

Lúc sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: Thực chất của vấn đề dân tộc là văn hóa và cán bộ. Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta suy cho cùng là làm cho các dân tộc được sống trong hòa bình, tự do, được nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Ai là thành phần có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài đối với sự phát triển của các dân tộc thiểu số nói chung và văn hóa nói riêng nếu như không phải là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Văn hóa là quan điểm, là nội dung chính sách, là hệ quả kiểm chứng thước đo của các loại hình chính sách (kinh tế, xã hội, môi trường, cán bộ, an ninh, quốc phòng….) của Đảng và Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số. Vì lẽ đó mà chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực văn hóa có một v

Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Đó là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cộng đồng 54 dân tộc (1 dân tộc đa số và 53 dân tộc thiểu số) sống trên đất nước ta đều có những giá trị văn hóa mang các sắc thái riêng được bổ sung cho nhau, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Các thành tựu văn hóa của các dân tộc anh em góp phần củng cố sự thống nhất dân tộc – cơ sở để giữ vững sự bình đẳng  và đại đoàn kết các dân tộc và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em.

Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ dành độc lập dân tộc, trong xây dựng đất nước thời bình, hội nhập và phát triển toàn cầu hóa hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn ý thức và coi trọng văn hóa quốc gia, văn hóa tộc người trong phát triển. Đồng thời với các quan điểm, chính sách giải quyết các vấn đề quân sự, kinh tế, ngoại giao… thì văn hóa được nhìn nhận với tư cách là “soi đường cho quốc dân đi” (Hồ Chí Minh). Văn hóa các dân tộc thiểu số là một bộ phận của văn hóa quốc gia, là kho vốn vô giá tạo dựng đặc điểm văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa các dân tộc thiểu số là tài nguyên tạo nên động lực tinh thần mạnh mẽ trong công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay. Qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt trong thời kỳ đối mới từ 1986 đến nay Đảng và Nhà nước đã ngày càng có những chính sách cụ thể sát hợp về văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng gần đây tiếp tục khẳng định và làm rõ: “Trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao nhân tố văn hoá, con người. Mọi hoạt động văn hoá, từ bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hoá; phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số, văn hoá tôn giáo, xây dựng thiết chế văn hoá,… đều phải phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con người.”

53 dân tộc thiểu số với kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo, phong phú và đa dạng bao gồm: Kiến trúc, trang phục, ẩm thực, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, dân ca, dân nhạc, dân vũ,… có thể xem văn hóa các dân tộc thiểu số như “bức tranh thổ cẩm” được chính đồng bào thêu dệt tinh tế và tươi màu rực rỡ bởi những nét văn hóa đậm đà bản sắc của chính cộng đồng dân tộc mình. Đời sống kinh tế ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong thời gian 15 năm qua đã từng bước được nâng cao do có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách đặc thù, tuy vậy vùng miền núi và dân tộc thiểu số tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém. Mặc dù đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn so với mặt bằng chung của cả nước, song 53 dân tộc thiểu số với rất nhiều nét văn hóa đặc sắc, phong phú từ đó góp phần tạo nên đời sống  văn hóa bản sắc và sinh động.

Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa cũng như công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta. Có thể khẳng định rằng, trong 15 năm qua các nhiệm vụ đặt ra trong Nghị quyết đã được đồng bộ triển khai và đạt được những hiệu quả rất đáng khích lệ. Đối với công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số cũng có những bước tiến quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự giao lưu và giao thoa văn hóa cũng diễn ra mạnh mẽ, nhưng vẫn đảm bảo tiên tiến, đậm đà bản sắc.

Trong thời ký đổi mới, vấn đề văn hóa quốc gia nói chung và văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng được Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII định hướng và tạo nên luông sinh khí mới chấn hưng các giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc. Các bộ, ban ngành chức năng, chính quyền các cấp đã triển khai, cụ thể các quan điểm, nhiệm vụ thành nhiều chính sách văn hóa cụ thể nói chung và ở vùng dân tộc thiểu số nói riêng. Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch) đã cụ thể thành những nhiệm vụ trọng tâm về công tác văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số miền núi thể hiện qua hệ thống văn bản trọng tâm trong từng giai đoạn. Các vấn đề chính sách được tập trung vào các vấn đề:

–  Công tác Văn hóa – Thông tin, Đề án xe văn hóa – thông tin lưu động tổng hợp, Công tác văn hóa thông tin biên giới, bờ biển, vùng Tây Nguyên, vùng đổng băng sông Cửu Long, 6 tỉnh đặc biệt khó khăn  miền núi phía Bắc;

– Xây dựng huyện điểm ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số;

– Bảo tồn làng, bản buôn các dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn;

– Đề án bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số;

– Phủ sóng phát thanh, truyền hình vùng dân tộc thiểu số;

– Bảo tồn tiếng nói chữ viết các dân tộc;

– Đưa các ấn phẩm, hoạt động văn hóa vào vùng đồng bào các dân tộc;

– Thành lập các hội nghiên cứu, bảo tồn văn hóa, văn nghệ các dân tộc;

– Thành lập các thiết chế văn hóa, bảo tàng Văn hóa các dân tộc;

– Phát triển du lịch văn hóa vùng đồng bào các dân tộc thiểu số;

– Đào tạo tri thức, nguồn lực con người các dân tộc thiểu số;

– Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng dân tộc thiểu số…

– Coi  trọng và phát huy vai trò của người dân – chủ thể của văn hóa.

Nhìn chung các chính sách văn hóa trên được các Bộ ban ngành, cơ quan Trung ương, chính quyển các cấp quan tâm triển khai và mang lại hiệu quả quan trọng, tạo nên diện mạo mới của văn hóa các dân tộc thời kỳ đổi mới với những thành quả được đánh giá trong văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước và các địa phương. Tuy nhiên bên cạnh đó đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần được quan tâm tâm trong giai đoạn mới.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số còn nhiều thực trạng cần được khắc phục nhằm thực hiện tốt hơn trong thời gian tới, trong đó có thể nêu lên một số thực trạng cấp bách như sau:

Việc điều tra, nắm bắt thực trạng về di sản văn hóa các tộc người thiểu số và vùng miền chưa thường xuyên, chưa kịp thời đầy đủ, chưa xây dựng được bản đồ quy hoạch, kế hoạch bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các tộc người và vùng miền sát thực cho từng giai đoạn nên còn mang tính định hướng chung, thiếu tính định lượng cụ thể…

Chưa thể chế hóa những chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước trong công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống các tộc thiểu số, đặc biệt là những dân tộc có số dân rất ít hoặc ở những  vùng đặc biệt khó khăn đang có nguy cơ cao bị đồng hóa, mất bản sắc…

Có nhiều di sản văn hoá đặc sắc của các tộc thiểu số chưa được nghiên cứu, lập hồ sơ để tôn vinh công nhận là là di sản cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia; đa số nghệ nhân của các tộc thiểu số chưa được quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện để phát huy trong việc  bảo tồn những di sản văn hóa mà họ là người nắm giữ nên nhiều giá trị truyền thống  nằm trong những “di sản sống”  đó lần lượt mất đi theo năm tháng…

Việc phục dựng một số sinh hoạt văn hóa truyền thống (lễ hội…) của các dân tộc thiểu số ở nhiều địa phương theo kiểu “sân khấu hóa” tuy có tạo ra được không khí và dư luận trong quần chúng về việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa nhưng lại có thể  làm biến dạng, méo mó phần nào giá trị của di sản…

Việc giới thiệu, quảng bá văn hóa các dân tộc thiểu số theo nhiều mô hình, cấp độ  tuy có lúc có nơi được chú ý, người dân hoan nghênh, phấn khởi nhưng khi có một vài ý kiến cho rằng “quá nhiều” lễ hội lại bị “co” lại khiến không ít người băn khoăn về số phận của những di sản đã và đang có nguy cơ bị lãng quên… Nhiều giá trị văn hóa truyền thống chưa được giới thiệu quảng bá để  trả về với chủ thể sáng tạo ra nó là đồng bào các dân tộc nên việc phát huy tác dụng xã hội còn hạn chế…

Việc sử dụng, phát huy và xây dựng đội ngũ cán bộ làm văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số, nhất là cán bộ  người các tộc thiểu số tuy có được chú ý hơn nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của phong trào, chưa theo quy hoạch lâu dài và ổn định;

Việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng dân tộc thiểu số có nhiều cố gắng, mức hưởng thụ của đồng bào về văn hóa được cải thiện nhưng còn nhiều hạn chế  về mặt bằng về hưởng thụ văn hóa; các thiết chế văn hóa truyền thống chưa được nghiên cứu để bảo tồn, phát huy

Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp đề ra, có lúc, có nơi chưa thống nhất, đồng bộ nên nhiều phong trào thiếu tính thiết thực, chưa thật sự thấm sâu vào các lĩnh vực đời sống xã hội.

Vùng dân tộc và miền núi, tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, một số tập tục lạc hậu có xu hướng phát triển. Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số chưa được phát huy đúng mức, mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào còn thấp.

Nguồn lực đầu tư để bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số mỏng, mang tính bình quân, dàn trải, phân tán, nhỏ giọt thiếu kịp thời, tập trung, đồng bộ. Một số chủ trương, kế hoạch, dự án đã xây dựng và phê duyệt không được thực hiện hoặc chậm  tiên độ, không  đến nơi đến chốn, hiệu quả không cao.

Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản, thống nhất, chưa được tôn vinh xứng đáng;

Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động văn hoá ở vùng dân tộc thiểu số còn quá nghèo nàn, lạc hậu.

Phong trào văn hoá, văn nghệ ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số chưa phát triển đồng đều cả về số lượng và chất lượng. Nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động cầm chừng do thiếu cán bộ có kinh nghiệm tổ chức và hiểu biết nghiệp vụ, chưa có sự hỗ trợ cần thiết của Nhà nước nên khó phát triển bền vững.

Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở cơ sở đa số chưa được quy hoạch, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ nên trình độ còn hạn chế, hiệu quả công tác chưa cao.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở vùng dân tộc thiểu số, xây dựng làng, bản, buôn, phum, sóc, thôn, gia đình văn hóa còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng chưa cao do nhiều nguyên nhân: nghèo, địa bàn khó khăn, phức tạp, còn dập khuôn, máy móc, cứng nhắc, các tiêu chí chưa chú ý đến đặc điểm văn hóa truyền thống, thiếu vận dụng linh hoạt sáng tạo cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng dân tộc…

Chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu số ở nước ta là một bộ phận quan trọng, tất yếu của việc xây dựng, bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên trong xu thế, vận động, phát triển của đất nước các vấn đề chính sách không chỉ được soi sáng bởi các quan điểm của Đảng mà còn chịu tác động của nhiều yêu tố văn hóa, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Đây cũng là thực trạng đặt ra nhiều vấn về lý luận và thực tiến cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Đó cũng là yêu cầu đặt ra đối với ngành Khoa học xã hội và Nhân văn, của viện Hàn lâm KHXH và cơ quan ban ngành hữu quan. Vấn đề cần được sự quan tâm hợp tác nghiên cứu cùa các nhà khoa học và quản lý trong những năm tới với cái nhìn đổi mới trong tư duy quản lý khoa học, hợp tác nghiên cứu mới có được những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra./.

Tiếp theo Chương trình làm việc tại Phiên họp thứ 38, sáng 8/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035.

Xây dựng môi trường văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm của ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công tác xây dựng môi trường văn hóa cần căn cứ vào các đặc điểm riêng của từng địa phương. Những đặc điểm này đòi hỏi phải có chính sách, nguồn lực và phương thức phù hợp.

Phú Yên nằm trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ có hệ thống giao thông kết nối thuận lợi. Với vị trí địa lý đặc biệt, nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và hệ thống di sản văn hóa phong phú tạo tiềm năng, lợi thế lớn để phát triển kinh tế du lịch. Thời gian qua, du lịch Phú Yên đang quan tâm đầu tư hạ tầng cơ sở, nỗ lực thực hiện xúc tiến, quảng bá du lịch, từng bước hình thành thương hiệu, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và du khách trong và ngoài nước. Vùng đất “hoa vàng trên cỏ xanh” hiện đang được ví như một “nàng công chúa đang thức giấc” với nhiều tiềm năng, lợi thế vốn có đang được khai thác, bảo tồn để phát triển du lịch. Hiện nay, Phú Yên đang là điểm đến được nhiều du khách chọn lựa trong hành trình du lịch vùng Nam Trung Bộ.

Được sự đồng ý của Chính phủ về việc mở cửa hoàn toàn hoạt động hàng không, xuất nhập cảnh và du lịch quốc tế, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã thông tin những điểm mới nhất trong phương án đề xuất dự kiến áp dụng từ ngày 15/03/2022 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, lấy ý kiến các bộ, ngành trước khi công bố chính thức. Đây là tín hiệu rất khả quan với nền kinh tế-xã hội và ngành du lịch nước nhà nhưng vẫn còn đó không ít thách thức, đòi hỏi những giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả khi triển khai, thực hiện chủ trương kịp thời và đúng đắn này.

Nằm ở trung tâm khu vực trung du và miền núi phía Bắc, Yên Bái là trung điểm của tuyến đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai kết nối tới vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Bắc Bộ; là điểm giữa của tuyến đường sắt liên vận trên hành lang giao thương kinh tế quốc tế kết nối các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh qua Côn Minh, Trung Quốc đến các nước Đông Bắc Á, Châu Âu và các nước ASEAN;  giữ vai trò bản lề mở ra tiểu vùng kinh tế – du lịch trọng điểm Tây Bắc phía hữu ngạn sông Hồng và Đông Bắc phía tả ngạn sông Hồng.

Danh sách xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Thừa Thiên Huế được quy định tại Danh sách ban hành kèm theo Quyết định 582/QĐ-TTg năm 2017 phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành, cụ thể:

DANH SÁCH XÃ THUỘC BA KHU VỰC VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Tên huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh

Trên đây là tư vấn về danh sách xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Thừa Thiên Huế. Để biết thêm thông tin chi tiết bạn hãy tham khảo tại Quyết định 582/QĐ-TTg năm 2017. Mong rằng những tư vấn của chúng tôi sẽ giúp giải đáp được những vướng mắc của bạn.

Ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ người lao động thuộc hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài.

Đây là nội dung tại Thông tư 46/2022/TT-BTC do Bộ Tài chính mới ban hành, quy định quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí sự nghiệp từ nguồn ngân sách trung ương thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025.

Ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ hộ đồng bào dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài.

Thông tư quy định rõ về việc hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Cụ thể, nội dung và mức hỗ trợ như sau:

Đối với người lao động thuộc hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài: Nội dung và mức chi thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 25 Thông tư số 15/2022/TT-BTC (không bao gồm chi phí hỗ trợ tiền đi lại (1 lượt đi và về) cho người lao động từ nơi đăng ký hộ khẩu thường trú đến địa điểm đào tạo);

Đối với người lao động thuộc hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài được hỗ trợ tiền đào tạo nghề, bổ túc kỹ năng nghề theo chi phí thực tế, tối đa theo mức quy định tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg; hỗ trợ đào tạo ngoại ngữ theo chi phí thực tế, tối đa bằng 70% và hỗ trợ các chi phí khác theo mức hỗ trợ đối với đối tượng quy định tại điểm a nêu trên;

Đối với người lao động khác đang sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, xã bãi ngang, ven biển và hải đảo có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài được hỗ trợ tiền đào tạo nghề, bổ túc kỹ năng nghề theo chi phí thực tế, tối đa theo mức quy định tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg; hỗ trợ đào tạo ngoại ngữ theo chi phí thực tế, tối đa bằng 50% theo mức hỗ trợ đối với đối tượng quy định tại điểm a.

Bên cạnh đó, chi hỗ trợ một phần chi phí đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận: Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quyết định mức hỗ trợ cụ thể đảm bảo phù hợp với thỏa thuận giữa hai Chính phủ về việc hỗ trợ chi phí đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài và trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao.

Chi hỗ trợ người làm công tác trực tiếp giới thiệu, tư vấn cho người lao động và thân nhân người lao động đi làm việc ở nước ngoài: Tối đa 50.000 đồng/người/buổi tư vấn nhưng không quá 500.000 đồng/tháng.

Tìm hiểu về dân tộc Thái ở Việt Nam để hiểu hơn về những đặc điểm văn hóa truyền thống lâu đời, để thêm yêu và tự hào về 54 dân tộc anh em của Việt Nam.